NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA THỜ THIÊN NHÃN
I . NGUỒN GỐC :Biểu tượng thờ phượng trong Đạo Cao Đài là hình Thiên Nhãn . Nguồn gốc thờ phượng này là do ngài Ngô Văn Chiêu mặc khải vào năm 1921 trong thời kỳ làm quan trấn nhậm tại Phú Quốc , một hòn đảo ở cực Nam nước Việt Nam .
Nguyên vì Ngài là vị môn đồ đầu tiên của Đức Chí Tôn , học đạo bằng Cơ bút , Đức chí Tôn là danh xưng Đức Cao Đài dạy Ngài phải tìm một dấu hiệu gì đó để làm biểu tượng thờ phượng .Ý nghĩa đầu tiên của Ngài muốn chọn hình chữ Thập . Đức Cao Đài Tiên Ông khuyên ngài nên chọn một dấu hiệu khác vì chữ Thập là dấu hiệu riêng của một nền Đạo đã có rồi . Ngài suy nghĩ tiếp và cuối cùng đựợc Đức Chí Tôn trợ thần cho Ngài thấy được huyền diệu Thiên Nhãn , là hình con mắt trái , hiện ra sáng lòa trong cái thấy của Chơn Thần Ngài , lúc ấy Ngài đang ngồi trên võng , phía sau dinh quận ở Phú Quốc .Sau hai lần chứng nghiệm huyền diệu này , Ngài đã hiểu được Thánh Ý của Đức Chí Tôn và tạo ra hình Thiên Nhãn để thờ . Biểu tượng thợ phượng đầu tiên gồm :
Một hình Thiên Nhãn phía trên.
Một hình Chữ Thập phía dưới và những chữ viết
Thiên Nhãn là hình tượng mặc khải có nguồn gốc thiêng liêng , dấu chữ Thập là ý nghĩa ban đầu Ngài Ngô Văn Chiêu định chọn , có nguồn gốc từ con người ,bởi vậy trong biểu tượng thờ phượng đầu tiên nầy có ý nghĩa hai nguồn gốc Trời và người hiệp nhất .
Đến năm 1926 Đức Chí Tôn chánh thức khai Đạo qua khỏi thời kỳ phôi thai của Đạo Cao Đài là thời kỳ mà Đức Chí Tôn dùng nhiều hiện tượng huyền linh để thâu phục đức tin cùa vị môn đồ đầu tiên là quan phủ Ngô Văn Chiêu , một người đang co xu hướng tu tiên , Đức Chí Tôn giáng cơ dạy về cách thờ phượng , biểu tượng vẫn là hình Thiên Nhãn vẽ trên bề mặt của một quả cầu gọi là quả càn khôn cùng với 3072 ngôi sao . Dưới quả càn khôn là long vị của Lão Tử , Thích Ca , Khổng Tử , Quan Âm , Thái Bạch , Quan Thánh , Jesus Christ , Khương Thái Công . Không có hình chữ Thập theo kiểu mẫu Ngài Ngô Văn Chiêu đã thờ nhưng vị trí sắp bày các long vị cũng theo hai nét , môt ngang , môt dọc . Hàng ngang tượng trưng tam giáo .Hàng dọc tượng trưng ngũ chi .
II. Ý NGHĨA :1.Con mắt trái thuộc dương :
Mặc dù hình tượng mặc khải là hình một con mắt chói sáng như mặt trời có tính cách thiêng liêng là một hình ảnh xuất hiện trước mặt Ngài Ngô Văn Chiêu chừng 2 mét tây nhưng khi vẽ lại con mắt ấy để thờ thì giấy mực màu sắc chỉ là vật chất không sao tả được trọn vẹn sức sống lung linh huyền diệu của nó , gọi là Thần nên phải mượn hình ảnh con mắt thường của con người tượng trưng . Mắt người có hai trái và phải .Quan niệm truyền thống của Đông Phương cho rằng trong thân người trái thuộc dương , phải thuộc âm . Trong vũ trụ dương là Trời , âm là Đất nên chọn con mắt trái để thờ , ý nghĩa là thờ Trời .Vắn tắt là như vậy .
2. Nhãn thị chủ tâm :
Năm 1926 Đức Chí Tôn giáng cơ chỉ dạy về ý nghĩa biểu tượng thờ phượng vắn tắt như sau :
Nhãn thị chủ tâm
Lưỡng quang chủ tể
Thần thị Thiên
Thiên giã ngã giã
Tạm dịch :
Mắt là chủ của lương tâm
Hai yến sáng là chính
Yến sáng là Thần
Thần là Trời
Trời là Ta vậy
Diễn giảng :
Trong vũ trụ có một sự sống tột cùng , biết sáng tạo ra hình thể của muôn loài vạn vật gọi là khối Đại Linh Quang còn gọi là Trời . Còn con người là tiểu vũ trụ , trong con người có một sự sống đồng thể với Đại Linh Quang hay linh hồn , chơn linh , ta còn gọi là tâm hay lương tâm.
Tâm con người không hình ảnh nhưng trạng thái của nó thế nào đều hiện ra trong ánh mắt không thể che dấu được .Ngạn ngữ Phương Tây có nói “ Con mắt là cửa sổ tâm hồn “ cũng đồng nghĩa ấy hay nói cách khác nội tâm con người biểu lộ bên ngoài chủ yếu ở con mắt . Cái thấy của hai con mắt mới là chính , thấy được hiểu biết sáng suốt Sự hiểu biết sáng là Thần , nơi con người Thần là Trời Trời là Ta vậy ( Ta là Đức Chí Tôn nói với người hầu đàn ) Vì vậy thờ Thiên Nhãn là thờ tâm linh , mà tâm linh con người là Trời ( Tiểu thiên địa )
3. Thần cư tại nhãn :
Con mắt thường của người là nhục nhãn chỉ thấy được ánh sáng hay màu sắc vật chất như ánh sáng mặt trời , ánh đèn , ánh trăng , các màu sắc đỏ ,vàng , đen , xanh , tím ……..Người tu đọat pháp tinh khí thần hiệp nhất được có thêm con mắt thứ ba gọi là thần nhãn hay huệ nhãn . Đó là lọai năng khiếu tâm linh thấy được màu sắc ánh sáng trong thế giới gọi là vô hình mà đối với con mắt thường không thể thấy được
4. Ấn chứng huyền linh Thiên Nhãn trong các bí tích :
Một số các phép bí tích như : giải oan , tắm thánh ,độ thăng , hôn phối có phần bí nhiệm là ấn chứng huyền linh Thiên Nhãn ứng hiện như một hình ảnh trong chơn thần của người chức sắc hành pháp . Khi người chức pháp hành pháp hội đủ ba điều kiện cơ bản :
Người thọ nhãn xứng đáng được hưởng ân huệ của Đức Chí Tôn ban cho .
Chức sắc có thọ truyền bửu pháp và thi hành đúng phần thể pháp .
Trạng thái Tinh , Khí , Thần của người thi hành pháp phải cường lực , thanh bai , an tịnh .
5. Ấn chứng huyền linh Thiên Nhãn là ký hiệu tâm linh và có ý nghĩa :
Con mắt trái là hình thể hữu vi thuộc về vật chất . Thiên Nhãn là cái lý nhiệm mầu huyền bí thuộc lãnh vực siêu hình . Đạo Cao Đài mượn hình con mắt trái để thờ lý nhiệm và huyền lực vô hình sâu kín ẩn tàng bên trong mọi hình thể vạn loài trong Càn Khôn vũ trụ mà người đời gọi một tiếng quen thuộc là Trời vậy .
Nguyên văn lời Thánh giáo Đức Chí Tôn giáng cơ chỉ dạy cách thờ phượng , Ngài dùng tiếng “ con mắt Thầy “ để chỉ hình ảnh Thiên Nhãn
Trên vì sao Bắc Đẩu vẽ con mắt Thầy hiểu chăng ?
Sao Bắc Đẩu giúp xác định phương hướng cho người đi trong đêm , Thiên Nhãn trên chòm sao Bắc Đẩu có nghĩa là ánh sáng dẫn đường cho chúng sanh tức là Đạo vậy
Vì vậy thờ Thiên Nhãn có ý nghĩa là sống tuân theo bí quyết siêu phàm nhập thánh của Đức Chí Tôn chỉ dạỵ .