A.KITÔ GIÁO : NGUỒN GỐC CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO
- Từ khởi đầu,chỉ có Đức Giêsu Kitô với 12 môn đệ (tông đồ) của Người.
- Sau khi Đức Giêsu Kitô hoàn thành sứ mệnh lịch sử của người ở trần gian, các tông đồ chia tay nhau đi truyền đạo, từ Giuđa – Galilê (Tây Á) sang vùng Địa Trung Hải (Tây Âu) rồi toàn bộ châu Âu…
- Lúc đầu những kẻ theo đạo đều đựoc gọi là Kitô hữu (nghĩa là những người thuộc về Đức Kitô).
- Từ thế kỷ V trở đi,do sự tranh chấp và kèm cựa giữa hai trung tâm của đế chế là thành Roma và thành Constantinople, sự rạn nứt càng ngày càng lớn dần cho tới phân chia thành hai Giáo hội : Giáo hội Chính Thống (Eglises Oxthodoxe) ở Constantinople và Giáo hội Công giáo (Eglises Catholique) ở Roma.
- Thế kỷ XVI, do mâu thuẫn nội bộ trong Giáo hội Công giáo ở Roma, đã xuất hiện một phong trào Cải Cách Tôn giáo, đem đến kết quả là các Giáo hội Tin Lành (Eglises Evangéligues) hay còn gọi là Giáo hội Thệ phản (Eglises Protestantes) cũng như Giáo hội Anh giáo (Eglise Anglicane) được hình thành, ly khai khỏi Giáo hội Công giáo Roma.
Từ các Giáo hội ly khai nói trên đã phát sinh nhiều cộng đồng Kitô giáo khác.
I.GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 1. Nguồn gốc tên gọi
- Công giáo là dịch nghĩa một từ gốc Hy Lạp (Katholicos, Catholique) có nghĩa là phổ quát (universel) để chỉ rằng Giáo hội Kitô là một tôn giáo phổ quát cho tất cả mọi người, mọi dân tộc.
- Lúc đầu “công giáo” là một tính từ để chỉ một đức tính của Kitô giáo là đạo phổ quát.Trong kinh Tin Kính được sọan thảo ở Công đồng Nicéa I (năm 351) mà ngày nay Giáo hội Chính Thống cũng như Giáo hội Công giáo đều tuyên xưng : “Tôi tin Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”.
- Nhưng ngày nay từ “công giáo” (catholique) được dùng để phân biệt Giáo hội Roma với các Giáo hội khác.
- Công giáo được truyền sang Việt Nam đầu thế kỷ XVII.Các vua quan thời nhà Lê gọi Công giáo là “Hoa Lang đạo” (tức đạo của người Bồ Đào Nha, Đạo của người châu Âu).Dưới thời nhà Nguyễn, Công giáo được gọi là đạo Datô (phiên âm Hán Việt của từ Giêsu),có khi cũng được gọi là đạo Cơ Đốc (phiên âm Hán Việt của từ Kitô).
Trong hòa ước ký kết giữa Pháp và triều đình vua Tự Đức ngày 15.3.1874, lần đầu tiên cụm từ “Thiên Chúa giáo” được sử dụng.
- Thiên Chúa giáo là tôn giáo tôn thờ “Chúa Trời”,tức Đấng Tạo dựng, Đấng Tối cao.Người Do Thái cũng thờ Thiên Chúa là Đấng Tạo dựng, người Hồi giáo cũng thờ Đấng Alla là Đấng Tối cao.
- Vậy nếu gọi một thành phần của đạo Kitô là Công giáo (Giáo hội Công giáo Roma) thì cũng chỉ để nói rằng Công giáo là đạo của mọi người, mọi dân tộc,chứ không riêng gì cho một chủng tộc hay một quốc gia nào.Nhưng Công giáo không hề có nghĩa là đạo công như trường công hoặc là đạo được chính thức nhìn nhận như một quốc đạo.
2. Số lượng tín hữu Kitô giáo và Công giáo
- Công giáo hiện có mặt trên hầu hết các quốc gia trên thế giới,nhưng chỉ chiếm đa số ở một số nước châu Âu và châu Mỹ Latinh…
II.GIÁO HỘI CHÍNH THỐNG- Giáo hội Chính Thống (Eglises Orthodoxes) tách ra khỏi Giáo hội Công Giáo năm 1054.Đây là năm hai Giáo hội khai trừ lẫn nhau và lên án lẫn nhau.Chín trăm năm sau, năm 1964,phía Công giáo là Giáo hoàng Paul VI và phía Chính Thống là Thượng phụ Athénagoras I đã cùng giải vạ tuyệt thông cho nhau và bắt tay thân ái cùng sống chung trong phong trào Đại kết Kitô giáo. Viễn tượng hợp nhất giữa hai Giáo hội rất có nhiều triển vọng,vì về mặt tín lý cũng như phụng vụ, bí tích, hai bên không có những điểm khác nhau cơ bản.Hai bên chỉ lấn cấn về quyền huynh trưởng (Primauté) của Đức Giáo chủ Roma
- Số tín hữu Chính Thống giáo tập trung nhiều nhất ở Liên bang Nga,Hy Lạp và các nước Đông Âu.
III.CÁC GIÁO HỘI CÔNG GIÁO ĐÔNG PHƯƠNG - Đây là các Giáo hội theo nghi lễ Đông phương gần giống như các Giáo hội Chính Thống ở Cận Đông, ở Đông Âu và vùng Nam Ấn Độ,từ thế kỷ XVI đã thông hảo với Tòa Thánh Vatican. Mặc dầu số tín hữu ít ỏi (chỉ hơn chục triệu) nhưng sự hiện diện của các Giáo hội này rất quý, vì nó chứng tỏ rằng nền văn hóa Đông và Tây tuy khác nhau nhưng vẫn có thể hòa hợp.
IV.CÁC GIÁO HỘI NHẤT THỂ GIÁO- Gọi là các Giáo hội Nhất Thể giáo (Eglises Monophysites) vì các Giáo pháo này chỉ tin nhận những tín điều có trước Công đồng Canxêđôni (năm 451) nên cũng gọi là các Giáo hội tiền Canxêđôni.
V.CÁC GIÁO HỘI TIN LÀNH- Gồm chủ yếu là hai môn phái Luther và Calvin, thường gọi là Tin Lành lịch sử vì hai môn phái này gắn với cuộc Cải cách về tôn giáo của hai nhân vật Martin Luther người Đức (1483-1546) và Jean Calvin người Pháp (1509-1564).Giáo hội Luther (Eglises Luthérienes) hay cũng gọi là Giáo hội Tin Lành (Eglises Evangéliques) và Giáo hội Calvin (Eglises Calvinistes) hay còn gọi là Giáo hội Cải cách (Eglises Réformées). Đây là hai môn phái rất gần nhau về mặt giáo lý.Họ chỉ công nhận quyền tối thượng của Kinh Thánh (Sola Scriptura) và tín hữu được cứu độ chỉ do ân sủng của Chúa (Sola gratia). - -- Hai môn phái này không công nhận việc thờ kính Đức Mẹ Maria và các thánh, lễ Misa và quyền huynh trưởng cúa Đức Giáo chủ Roma.
VI.ANH GIÁO - Năm 1534, vua Henry VIII tự khẳng định mình là lãnh tụ tối cao của Nhà nước và Giáo hội Anh. Đến năm 1558 dưới triều hoàng hậu Elizabeth I, quyền tối thượng của nhà vua được pháp luật hóa. Giáo hội Anh giáo gồm có nhà vua, hàng giáo phẩm với nền phụng vụ giống Công giáo và nền tín lý như môn phái Tin Lành Calvin. Anh giáo đọc cùng một kinh Tin kính như Công giáo và Chính Thống giáo. Phụng vụ đuợc thể hiện qua cuốn Sách Kinh (Prayer book) của thủ tướng Cromwell (xuất bản năm 1662). Giáo hội Anh giáo được mệnh danh là Giáo hội Bắc cầu (Bridge Church) thong cảm giữa Công giáo và Tin Lành. Anh giáo phong chức thánh (giám mục,linh mục) cho phụ nữ còn Công giáo thì không.
VII.CÁC GIÁO HỘI KHÁC1. Môn phái Menonit
- Danh xưng Menonit lần đầu tiên xuất hiện năm 1544, được lấy tên ông Meno Simons (1496-1561) một linh mục Công giáo nhưng lại đi theo những người chủ trương không làm phép Rửa cho trẻ em và xã hội không có quyền can thiệp vào lòng tin của con người. - Phái này từ chối nghĩa vụ công dân, cấm chỉ việc mang vũ khí. Linh mục Meno theo phái ôn hòa, ông chủ trương sống theo những giáo huấn của Đức Giêsu trong bài giảng trên núi của Ngài. Sau nhiều cuộc bách hại và thăng trầm của lịch sử, số tín hữu phái Menonit hiện nay còn rất ít và chủ yếu tập trung ở Hoa Kỳ và Hà Lan.
2. Môn phái Baptít
- Khai sinh từ cuộc cải cách thế kỷ XVI, hoạt động tại Zurich (Thụy Sĩ) và tại Luân Đôn. Số tín đồ rất ít tại châu Âu nhưng đông đảo tại Hoa Kỳ. Họ đấu tranh bảo vệ tự do tôn giáo, tranh đấu bên vực giáo quyền và chính quyền.
3. Môn phái Mêtốt
- Phát sinh từ Anh giáo và thành lập tại Anh quốc thế kỷ XVIII do John Wesley (1703-1791), với mục đích thức tỉnh mọi người. John hoạch định một phương pháp, một quy luật đời sống tu đức và đạo đức rất khắc khe.
4. Môn phái Hiện xuống (Pentecotistes)
- Bắt nguồn từ truyền thống Tin Lành, môn phái này xuất hiện tại California (Hoa Kỳ) năm 1906,nhân cơ hội “phong trào tỉnh ngộ” đang lên cao. Năm 1907,được mục sư thuộc phái Mêtốt tên là Barrat đem sang châu Âu, tổ chức đặt tại Oslo (Norway).
5. Môn phái Quakers
- Do ông Georges Fox thành lập giữa thế lỷ XVII, phong trào Quakers là một phong trào đòi hòa bình rất kiên trì và hoạt động mạnh ở Hoa Kỳ.\
6. Môn phái Phục Lâm (Adventiste)
- Giáo thuyết của môn phái nảy cũng giống như các môn phái Tin Lành khác nhưng đặc biệt tin và chờ ngày Phục Lâm sắp tới của Đức Kitô.
7. Môn phái chứng nhân của Giêhova (Témoins de Jéhovah)
- Các tín hữu của môn pháo này tin ở Thiên Chúa (Jehovah) và Kinh Thánh ( sách Khải Huyền) là sách mặc khải về ngảy tận thế.