CÂU LẠC BỘ HƯỚNG DẪN VIÊN
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CÂU LẠC BỘ HƯỚNG DẪN VIÊN

ĐÀ NẴNG IKEYER
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Các lễ hội ở Hà Nội

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 131
Join date : 28/09/2010

Các lễ hội ở Hà Nội Empty
Bài gửiTiêu đề: Các lễ hội ở Hà Nội   Các lễ hội ở Hà Nội I_icon_minitimeWed Sep 29, 2010 8:38 pm

LỄ HỘI THÁNH GIÓNG

Lễ hội Thánh Gióng hay còn gọi là hội làng Phù Đổng (tên nôm là làng Gióng). Đây là một trong những hội lễ lớn nhất ở đồng bằng Bắc bộ, một diễn trường lịch sử - văn hoá, diễn lại sự tích Thánh Gióng đánh thắng giặc ân. Từ Hà Nội muốn đi tới làng Phù Đổng phải qua Gia Lâm, theo quốc lộ 1 về hướng Bắc Ninh thẳng tới cầu Đuống. Qua cầu rẽ phải dọc theo đê khoảng 7 km thì tới. Đứng trên bờ đê đã có thể trông thấy đền Thượng - một ngôi đền khá đồ sộ, kiến trúc theo lối xưa. Đây chính là nơi thờ Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên Vương. Ngọc phả trong đến còn ghi lại tiểu sử của cậu bé Gióng được sinh ra do một lần người mẹ nghèo làng Gióng ra đồng thấy một vết chân to lớn lạ thường, bà ướm thử vào chân mình, về nhà mẹ mang thai sinh ra Gióng. Cậu bé trong ba năm không nói không cười ấy khi biết nạn nước lâm nguy đã yêu cầu nhà vua rèn ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt cho mình rồi vươn vai đứng dậy thành người khổng lồ ăn hết bẩy nong cơm, ba nong cà, sau đó nhảy lên ngựa sắt, mặc áo giáp sắt dùng gậy sắt, tre quê nhà làm vũ khí dẹp giặc. Giặc tan, Gióng cho ngựa chạy lên núi Sóc. Tại đây Gióng cởi bỏ áo giáp cả người và ngựa cùng bay lên trời.

Câu chuyện là cả một chủ đề bất tuyệt về chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam: tuổi nhỏ mà trí lớn, bình thường mà phi thường, nước gặp nạn sẵn sàng ra cứu nước, tan giặc rồi lại trở về là một người dân vô danh.
Kiến trúc đền cho biết đền được dựng từ thế kỷ XI thời Lý. Hằng năm cứ đến ngày 9 tháng 4 âm lịch (ngày ông Gióng thắng giặc Ân), dân tứ xứ lại đổ về từ mọi ngả xa gần để xem lễ, dự hội làng. Lễ hội làng Gióng được cử hành trên một diễn trường rộng lớn dài khoảng 3 km gồm đền Thượng, đền Mẫu (thờ mẹ Gióng) và chùa Kiến Sơ.
Hội bắt đầu từ ngày mồng 6 tháng 4. Trong những ngày này dân làng tổ chức lễ rước cờ tới đền Mẫu, rước cơm chay (cơm cà - thức ăn mà Gióng thích) lên đền Thượng. Ngày chính hội (9-4) có lễ rước kiệu võng từ đền Mẫu lên đền Thượng và tổ chức hội trận (diễn lại trận phá giặc Ân). Ngày mồng 10 làm lễ duyệt quân tạ ơn Gióng. Ngày 11 lễ rửa khí giới. Ngày 12 lễ rước cờ báo tin thắng trận với trời đất... Cuối cùng là lễ khao quân, đến đêm có hát chèo. Ngoài lễ hội chính tại làng Phù Đổng còn có một số nơi khác cũng tổ chức hội Gióng: Hội đền Sóc (xã Xuân Đỉnh huyện Từ Liêm), hội Sóc Sơn (huyện Sóc Sơn), hội Phù Gióng; hội Gióng Bộ Đầu...

Trong các lễ hội Hà Nội có lẽ hội Gióng làng Phù Đổng là một lễ hội được tổ chức quy mô và hoành tráng nhất. Đây là cơ hội để người tham dự được chứng kiến các nghi thức của một hệ thống lễ với các thao tác thuần thục, uy nghi, mang tính nghệ thuật và biểu tượng cao. Cũng tại đây, mỗi người đều có dịp cảm nhận mối quan hệ nhiều chiều giữa làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và ảo, giữa thiêng liêng và trần tục, tất cả đều được gìn giữ như một tài sản văn hoá để lưu truyền mãi về sau.

LỄ HỘI TRIỀU KHÚC

Nằm tại km số 8, trên đoạn đường Hà Nội - Hoà Bình, làng Triều Khúc còn có tên gọi là Kẻ Đơ, nay thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Kẻ Đơ xưa vốn đã là một vùng quê nổi tiếng với nghề làm nón quai thao, vì thế, làng còn được gọi là làng Đơ Thao. Ngoài quai thao, làng còn nổi tiếng bởi nghề thêu may những đồ thờ như: lọng, tàn, trướng, y môn, tán tía.

Tương truyền, nghề này do một người họ Vũ truyền dạy lại. Do có nghề thủ công nên từ xưa dân làng Triều Khúc đã sống tương đối phong lưu. Để nhớ ơn người đã đem lại cuộc sống ấm no cho mình, dân làng đã thờ ông tổ nghề tại đình Lớn cùng với vị Thành hoàng là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (770 -798). Hằng năm, làng tổ chức lễ hội tại đình Lớn để ghi nhớ công ơn tổ nghề và thao diễn lại trận đánh oanh liệt của vị Đại vương mà dân làng vẫn tôn kính phụng thờ.

Lễ hội Triều Khúc được tổ chức trong ba ngày từ 9 đến 12 tháng Giêng. Mở đầu là lễ rước long bào - triều phục của Hoàng đế Phùng Hưng từ đình Sắc về đình Lớn (Triều Khúc có hai đình) để bắt đầu cuộc tế gọi là lễ “hoàn cung”. Khi cuộc tế lễ trong đình bắt đầu thì ngoài sân đình các trò vui cũng được tổ chức, một trong những trò vui được nhiều người ưa thích nhất là trò “đĩ đánh bồng”. Đây là một điệu múa cổ do hai chàng trai đóng giả gái biểu diễn, trong bộ quần áo mớ ba mớ bẩy, cộng với hoá trang má phấn môi son, răng đen hạt huyền, mắt lá răm, khăn mỏ quạ, hai “cô gái” vừa nhún nhảy vừa vỗ trống Bồng đeo trước bụng một cách nhí nhảnh, nom rất vui mắt và cũng gây cười. Tiết mục này thường thu hút người dự hội nhiều nhất và cũng là tiết muc sinh động và độc đáo nhất trong lễ hội Triều Khúc.

Ngoài ra, trong hội làng Triều Khúc còn có nhiều trò vui khác như múa lân hí cầu, đấu vật, hát Chèo Tàu. Sới vật Triều Khúc cũng là một trong những sới nổi tiếng, thu hút khá đông các đô vật nơi khác về tham dự: Bắc Ninh, Gia Lâm, Mai động... Múa rồng trong hội Triều Khúc cũng có nhiều nét độc đáo, kỹ thuật điêu luyện. Tương truyền đây là điệu múa có từ thời Bố Cái Đại Vương. Do múa hay, múa đẹp như vậy nên hằng năm đội múa rồng Triều Khúc thường được mời về tham dự và múa rồng ở hội Đống Đa.


Ngày 12 là ngày rã hội. Trong ngày này có lễ rã đám, và kết thúc bằng điệu múa cờ (còn gọi là chạy cờ). Điệu múa phản ánh sự tích Phùng Hưng kén chọn người tài để bổ sung quân ngũ trước lúc lên đường quyết chiến với quân xâm lược.
Khi mọi nghi lễ kết thúc, cũng là lúc mọi người cùng ngồi vào chiếu hưởng lộc thánh. Họ cùng nhau chia vui chén rượu, miếng trầu. Hội kết thúc trong niềm vui tươi phấn khởi và hy vọng của dân làng về một năm mùa màng bội thu, nghề nghiệp sẽ thịnh đạt, dân làng sẽ khoẻ mạnh hơn trước.

LỄ HỘI QUANG TRUNG

Hàng năm cứ vào ngày mồng Năm Tết Nguyên đán, khi những cành đào xuân vẫn khoe sắc thắm thì người Hà Nội đã nô nức đổ về phía Tây Nam thành phố (gò Đống Đa- thuộc quận Đống Đa) dự hội chiến thắng Đống Đa.
Cách đây hơn hai thế kỷ, gò Đống Đa là chiến trường chính, nơi chứng kiến trận đánh hoả công oanh liệt của quân dân Đại Việt với hàng chục vạn quân Thanh. Xác thù chồng chất thành gò, gắn với tên đất, gò thành di tích lịch sử vẻ vang. Tới giữa thế kỷ XIX, khi người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ và triều đại của ông cũng không còn nữa, nhớ ơn người đã dẹp giặc giữ yên bờ cõi, nhân dân hai làng Nam Đồng và Thịnh Quang cùng đứng ra xây một ngôi chùa trước gò gọi là chùa Đồng Quang. Từ đó hàng năm chùa mở lễ giỗ trận vào ngày 5 Tết (ngày chiến thắng Đống Đa và cũng là ngày đại quân của hoàng đế Quang Trung toàn thắng giặc Thanh trên đất Thăng Long) .

Sau giải phóng thủ đô 1954, chính quyền thành phố đã lấy gò Đống Đa làm nơi tổ chức kỷ niệm chiến thắng Đống Đa oanh liệt. Qua đắp đổi của thời gian và tâm linh, tâm thức con người, nghi lễ được hoàn chỉnh dần, trở thành một ngày hội lớn có lễ kỷ niệm và hội với nhiều trò vui, tích diễn. Đặc biệt là tiết mục rước rồng lửa do các chàng trai mặc quần áo võ sinh thời cổ rước đi quanh sân lớn, cùng một đám võ sinh múa côn quyền vừa là khoe tài vừa là tái hiện lại hình ảnh cuộc chiến đấu anh dũng khi xưa. Lịch sử đã đi qua, nhưng hình ảnh vua Quang Trung áo bào sạm đen khói súng cùng đoàn quân bách chiến bách thắng tiến vào thành Thăng Long mãi mãi vẫn là hình ảnh kỳ vĩ trong lòng các thế hệ người Hà Nội.

Cũng vào ngày này, tại chùa Đồng Quang đối diện với gò Đống Đa khói hương nghi ngút, tín đồ tấp nập vào ra, tiếng mõ hoà tiếng kinh cầu hồn cho anh linh những người con của dân tộc đã tử trận ở đây được siêu thoát. Đồng thời cũng làm lễ cháo thí cho cô hồn những kẻ chiến bại của quân xâm lược Mãn Thanh, coi như đó là một hành động nhân nghĩa của truyền thống đạo lý Việt Nam.

TẾT ÂM LỊCH


Tết âm Lịch là dịp lễ tết lớn nhất trong tất cả các ngày lễ tiết truyền thống của người Việt. Đón tết là kéo theo một loạt các nghi thức và hoạt động chuẩn bị cho những ngày Tết: trồng nêu, gói bánh chưng, trang hoàng nhà cửa, quét vôi cho các gốc cây, thậm chí còn vẽ thành những hình cung nỏ trong ngõ nhà để phòng đuổi ma trong đêm trừ tịch...


Dân ta có câu:

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ

Nêu cao pháo nổ bánh chưng xanh.

Muối dưa hành và gói bánh chưng là công việc bắt buộc phải chuẩn bị cho ngày tết. Vốn là món ăn truyền thống của người dân Việt Nam dưa hành không chỉ là món ăn ngon, mà còn có tác dụng điều tiết tiêu hoá. Bánh chưng là sản phẩm của văn hoá ẩm thực nông nghiệp, nó nhắc nhở chúng ta nhớ về cội nguồn thủa Hùng Vương dựng nước và câu chuyện cảm động về tấm lòng hiếu nghĩa của chàng trai Lang Liêu. Vì thế, trong ngày tết dân ta không bao giờ quên gói bánh chưng để cúng tổ tiên, tỏ tấm lòng không quên cội rễ của con dân nước Việt.
Nêu vốn được coi là “cây vũ trụ”, trồng nêu trong ngày tết có ý nghĩa lấy dương khí của vũ trụ truyền toả xuống lòng đất âm, nhằm xua tan cái lạnh của mùa đông còn sót lại và làm cho âm dương giao hoà, vạn vật sinh sôi phát triển.

Tết đến rõ nhất và sớm nhất vẫn là ở các chợ. Hằng năm cứ vào khoảng từ ngày 23 - 27 tháng Chạp thì chợ nào cũng gọi là Chợ Tết, còn phiên 28, 29 gọi là phiên áp tết. Những ngày này hết thảy mọi người đều đi mua sắm, mọi mặt hàng phục vụ cho tết đều đem bán. Từ hoa quả, quần áo, tơ lụa, đồ trang sức, tranh treo tết đến vàng hương, đồ thờ... cho đến các loại lương thực, thực phẩm với số lượng nhiều gấp bội và cũng hết sức đa dạng phong phú hơn hẳn ngày thường. Người ta đi chợ tết nhiều khi không chỉ để mua sắm, mà còn đi chơi chợ, để thưởng thức chợ, ngắm hàng hoá chợ. Do đó, chợ tết bao giờ cũng rất đông. Dân gian có câu: vui như chợ tết, đông như chợ tết, đẹp như chợ tết và cũng đắt như chợ tết!

Tết được tính từ ngày 23 tháng Chạp - ngày Táo quân lên chầu trời. Nhà nhà đều phải sửa lễ tiễn ông Táo lên trời. Ông Táo gồm ba vị (2 nam, 1 nữ) còn gọi là “ông đầu rau”, “ông bếp núc” hay còn gọi một cách tôn kính hơn là “Vua Bếp”, hoặc “Táo Công” hay “Táo Quân’. Dân ta vẫn gọi tắt là “ông Công”. "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá". Như vậy Thổ công là thần trông coi mọi việc trong vùng đất của từng gia đình, được suy tôn là “đệ nhất gia chi chủ”. Đó là vị thần không chỉ định đoạt may rủi, phúc hoạ mà còn ngăn cấm ma quỷ nơi khác tới, giữ bình yên cho nhân gia.

Trong tâm thức người dân cứ đến ngày 23 tháng Chạp Táo quân lại lên trời để báo cáo với thiên đình về tình hình gia chủ. Do vậy cứ đến ngày này, nhà nhà đều sắm mũ, áo mới để “hoá” cho Táo quân và tặng thêm bộ ba cá chép còn sống. Cá này sau khi cúng lễ đem phóng sinh ở sông hồ với niềm tin cá sẽ hoá rồng để đưa Táo lên chầu trời. Đến ngày 30 tháng Chạp, Táo lại trở về trần gian bắt đầu công việc của năm mới mà Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu linh thiêng và long trọng.

Tết Nguyên Đán là gọi theo âm Hán Việt. “Nguyên” là bắt đầu, “Đán” là buổi sớm mai, vì thế Tết Nguyên Đán là tết mở đầu cho một năm mới. Dân ta gọi là tết cả.

Tết Cả là tết của cư dân nông nghiệp. Xưa kia, khi qua một chu trình sản xuất - tức là một vòng trồng cấy, thì đây chính là thời điểm mở đầu một vòng quay mới của vũ trụ sau bốn mùa chu chuyển. Đó là lý do để người nông thôn, nông nghiệp lấy đó làm mốc cho hoạt động sản xuất- nghỉ ngơi của mình, vì thế mới có lễ hội xuân - thu nhị kỳ, điều đó lý giải tại sao chỉ trong dịp Tết Cả, toàn thể cộng đồng mới cầu chúc nhau toàn diện: cầu “Phong đăng hoà cốc” với nông dân; “Mở mang trăm nghề” với thợ thủ công; “Đỗ đạt hiển vinh” với nho sinh, giáo sĩ; “Một vốn bốn lời” với thương nhân... và cứ đà ấy “Bách niên giai lão” với người già; “Hay ăn chóng lớn” với trẻ nhỏ; “Hạnh phúc vuông tròn” với lứa đôi; “Có con” với người hiếm muộn; “Khoẻ mạnh” với người đau yếu; và với mọi người bình thường thì sức khoẻ và bình yên!

Cũng vào dịp này đạo lý làm người được nhắc lại để in sâu trong mối quan hệ nhiều chiều trọn vẹn giữa cháu con với ông bà, giữa trò và thầy, giữa bệnh nhân với thầy thuốc giữa vợ chồng với anh em bạn bè thân quyến. Và như vậy, phong tục này cũng chính là sự thể hiện một lối sống chu đáo, một lối ứng xử văn minh và tràn đầy lòng nhân ái.

Tết Cả được chọn vào đúng thời khắc 2 năm cũ mới gặp nhau và ly biệt. Giao thừa chính là điểm hội tụ và phân ly ấy. Đó là thời điểm thiêng liêng nhất của một năm, đúng vào lúc chuyển đổi từ mùa đông băng giá khô cằn - biểu tượng của huỷ diệt chết chóc sang mùa xuân ấm áp đâm chồi nẩy lộc - biểu tượng của sự sống tiến triển sinh sôi. Vì thế, đúng lúc giao thừa, người xưa có nhiều hành động tượng trưng để ước vọng lời chúc thành hiện thực: Đoàn trẻ nhỏ hát “súc sắc súc sẻ” chúc mừng mọi gia đình; tục “gọi gạo”; lệ “giữ lửa qua đêm Giao thừa - giữ sự sống từ năm cũ sang năm mới”; lễ “Trảm tự - chém chữ” để truyền võ công cho trai đinh của các dòng họ trong làng; "bẻ cành hái lộc - rước sự sống mới vào cho gia đình"...

Tết là đổi mới, nên trong những ngày tết người ta thường tiến hành những hành động mang tính biểu trưng, mở đầu cho mọi việc trong năm mới tăng tiến, khá giả tốt đẹp hơn năm cũ. Bằng hành vi riêng lẻ hay nghi thức tập thể từng ngành, từng nghề, từng giới cũng mở đầu một hành động sao cho chu đáo và tốt đẹp, hoàn chỉnh và đồng bộ: Lễ động thổ (Khai canh) cho nhà nông (xưa trong thời phong kiến cũng có riêng một khoảnh đất trong kinh thành để dành cho nhà vua làm lễ “tịch điền”); Lễ khai bút (viết câu văn, làm bài thơ đầu tiên của thầy đồ nho); Người làm rừng có lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng). Dân chài lưới có lễ cầu ngư - đi kiếm mẻ cá đầu tiên lấy may; Quan lại có lễ khai ấn. Nghề thủ công có lễ khai nghiệp... Tất cả những lễ đó gọi là lễ khai xuân, lễ mở đầu hoạt động của từng ngành đầu mùa xuân để cầu may mắn cho cả năm.

Tóm lại, trong dịp Tết Cả, con người sống trong lễ thức tôn nghiêm cùng đạo đức cộng đồng, rồi ngay sau đó lại chan hoà vào các cuộc vui chơi, các hội thi tài để giải toả và quên đi mọi nỗi nhọc nhằn của cuộc sống đời thường năm cũ. Đồng thời vừa cầu mong tổ tiên và các vị thần linh âm phù để con cháu bước vào năm mới tốt đẹp, may mắn hơn nhiều lần năm ngoái. Do đó dù là lễ hay hội trong dịp Tết Cả cũng đều là những mỹ tục, nó bộc lộ lòng nhân ái với đồng loại, cùng đạo lý uống nước nhớ nguồn được khơi dậy với tinh thần cộng đồng sâu sắc, có tác dụng như mối dây liên kết bền vững giữa mỗi gia đình và kỷ cương xã hội.


HỘI ĐỀN HAI BÀ TRƯNG

Nằm cách đường Nguyễn Công Trứ chừng 500 mét, thuộc phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng là một ngôi đền kiến trúc theo lối xưa. Trước cửa đền là một cây đa lớn cành lá xum xuê tạo cho ngôi đền một vẻ linh tú, nghiêm trang. Đây chính là nơi thờ hai vị nữ vương duy nhất của Việt Nam là Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Sau ba năm kiên cường chống quân xâm lược phương Bắc (40-43), cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, nhưng đã để lại cho dân tộc ta tấm gương trung trinh của nhị vị nữ anh hùng, làm rạng ngời ý chí và bản lĩnh của phụ nữ Việt Nam. Tưởng nhớ sự nghiệp vẻ vang của Hai Bà cùng các tướng lĩnh, nhân dân đã lập đền thờ ở nhiều nơi. Nhưng nổi tiếng hơn cả, phải kể đến ba ngôi đền: đền Hát Môn (Hà Tây), đền Hạ Lôi (Vĩnh Phúc) và đền Đồng Nhân (Hà Nội).

Đền Đồng Nhân được khởi dựng vào năm 1142 đời Lý Anh Tông, sau sự kiện huyền kỳ về pho tượng Hai Bà bằng đá trôi theo dòng sông Hồng dạt vào bờ và toả sáng bãi Đồng Nhân đêm 6 tháng 2. Từ đó thành lệ cứ vào dịp này hằng năm dân làng tổ chức lễ hội. Đến năm 1819, bãi sông lở, đền chuyển về Sở Võ (giảng võ đường thời Lê) tại thôn Hương Viên, nay là phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội.

Hội đền Đồng Nhân kéo dài trong bốn ngày từ 3 đến 6 tháng Hai. Lễ hội bắt đầu bằng lễ mở cửa đền ngày mồng 3. Sáng ngày mồng 4 dân làng đã bắt đầu tế (là lễ nhập tịch). Đến ngày mồng 5 là ngày chính hội. Trong ngày này có lễ tắm tượng, tế nữ quan và tổ chức múa đèn, ngày mồng 6 tế lễ chay. Theo tục cũ mọi việc dâng cúng trong hậu cung đều do các lão bà thực hiện.

Sau tế lễ, đến múa đèn. Tốp múa đèn gồm từ 10 đến 12 cô gái độ tuổi thanh xuân đẹp đẽ và tầm vóc như nhau đã được tập luyện chu đáo. Tất cả các nữ vũ công này đều mặc áo dài đen, quần hồng, thắt lưng đỏ, đầu chít khăn lụa màu. Mỗi người cầm trên hai tay hai đèn làm bằng đài gỗ, dán giấy màu xung quanh và thắp nến cháy sáng ở giữa. Tốp múa này sắp thành hàng trước hương án và múa uyển chuyển, lúc lên lúc xuống, lúc đan xen, lúc tách hàng theo tiếng trống cơm bập bùng nhịp nhàng của hai cô gái đánh bồng (do nam giới cải trang) làm nhịp cho điệu múa. Ngày mồng 6 rã hội có lễ dâng hương và đóng cửa đền.

Về Đầu Trang Go down
https://danangikeyer.forumvi.com
 
Các lễ hội ở Hà Nội
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CÂU LẠC BỘ HƯỚNG DẪN VIÊN  :: TÀI LIỆU HỌC TẬP :: TÀI LIỆU THUYẾT MINH-
Chuyển đến